Lôi Phong - Sản xuất và bán lẻ đồ thờ cúng như bàn thờ, đèn thờ, khung ảnh thờ, bàn thờ, tượng phật

Nguyễn Khuyến - Nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam

Thứ Bảy, 04/11/2023
Trần Xuân Bách

Nguyễn Khuyến là một trong nhà thơ cuối cùng của thời trung đại, được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam”. Thơ của ông luôn nhẹ nhàng, thấm đẫm bài học về triết lý nhân văn sâu sắc. Cùng loiphong.vn tìm hiểu chi tiết về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến qua các thông tin dưới đây.

1. Tóm tắt tiểu sử Nguyễn Khuyến

1.1. Nguyễn Khuyến là ai?

Nguyễn Khuyến là ai?

Nguyễn Khuyến là ai?

Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam.

Cuộc đời của Nguyễn Khuyến có nhiều biến cố khi làm quan dưới triều Nguyễn đang suy sụp nên ước mơ chính trị của ông không thành công. Tuy nhiên, ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, phẩm chất trong sạch. Nguyễn Khuyến còn là văn lớn, giàu cảm xúc với thiên nhiên nên thơ văn của ông rất phong phú từ những tác phẩm trữ tình tới thơ ca trào phúng, văn tế, điếu.

1.2. Xuất thân của nhà văn Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là bà Trần Thị Thoan, nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.

2. Cuộc đời của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến nổi tiếng là người thông minh, học giỏi. Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha mình cho đến năm 8 tuổi ông theo gia đình về quê nội ở Lục Bình để sinh sống. Ông theo học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Với sự siêng năng, cần cù và ý chí cầu tiến, năm 1864 ông thi đỗ đầu cử nhân trường Hà Nội.

Năm 1865, ông thi trượt kỳ thi Hội nên ở lại Hà Nội học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa.

Năm 1871, Nguyễn Khuyến Thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Kể từ đó, ông được mọi người gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ”.

Bức ảnh cụ Nguyễn Khuyến chụp tại Huế khi đỗ đạt

Bức ảnh cụ Nguyễn Khuyến chụp tại Huế khi đỗ đạt

Năm 1873, Nguyễn Khuyến được bổ nhiệm làm Đốc Học rồi được thăng chức lên làm Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1877, ông thăng chức Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi.

Sang năm sau, Nguyễn Khuyến bị giáng chức và điều về Huế giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ tỏa tu Quốc Sử Quán.

Mùa thu năm 1884, Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ.

Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên ước mơ trị quốc thiên hạ của ông không thể thực hiện được.

Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương thất bại.

Nguyễn Khuyến là vị có phẩm chất tốt đẹp, trong sạch, thanh liêm, chính trực. Có rất nhiều giai thoại kể về cuộc đời và sự gắn bó của ông với nhân dân. Nguyễn Khuyến còn được biết tới là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống, gắn bó với thiên nhiên.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến mất ngày 05/02/1909, hưởng thọ 75 tuổi.

3. Sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Khuyến

3.1. Phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến

Phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến

Phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến

Phong cách sáng tác của ông chia làm các mảng sau:

Tâm sự yêu nước, u hoài trước sự thay đổi cuộc đời

Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam khiến cho xã hội có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Dưới con mắt của nhà Nho yêu nước, những biến đổi đó chủ yếu là tiêu cực. Đạo đức xã hội thay đổi khác rất nhiều so với chuẩn mực đạo đức phong kiến. Giống như nhiều  nhà nho khác, Nguyễn Khuyến cảm thấy đau xót trước hiện thực này, ông sáng tác nhiều bài thơ thể hiện nỗi niềm u hoài của mình về vận mệnh dân tộc.

Thơ về làng cảnh Việt Nam

Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, ông rất thành ông ở đề tài làng quê. Trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ thu. Để tránh khỏi sự bon chen chốn quan trường, ông đã lui về quê dạy học, làm thơ. Không khí thanh bình nơi thôn xóm đã khơi nguồn cảm hứng để ông sáng tác, gửi gắm tâm sự. Bức tranh làng quê trong ông luôn đẹp - vẻ đẹp của sự bình yên, thanh sang nhưng buồn và cô đơn.

Thơ trào phúng

Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu thâm thúy với nội dung trào phúng sâu cay. Ông phê phán những biểu hiện suy đồi của đạo đức xã hội nhất là chuyện khoa cử, quan tước. Với tâm trạng của nhà nho bất lực trước thời cuộc, ông viết thơ tự trào để vừa trách mình vừa bộc bạch tâm sự về thế cuộc.

Cả 3 mảng sáng tác trên, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.

3.2. Nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Khuyến

Nhắc tới nghệ thuật ngôn từ thì không một ai có thể vượt qua được Nguyễn Khuyến. Với lối sáng tạo đầy màu sắc, ngôn ngữ mà ông miêu tả qua những dòng thơ đầy mỹ lệ, gợi cảm. Cùng với đó là tinh thần học hỏi, ông luôn tìm hiểu, học tập những nhà thơ Nôm đi trước để “cải tạo” thơ văn của mình phong phú hơn.

Nguyễn Khuyến rất biết cách dùng từ, tả cảnh thích hợp, giàu nhạc điệu giúp câu văn, câu thơ trở nên chân thực. Chẳng hạn như bài thơ Thu điếu, Nguyễn Khuyến dùng câu “ao thu lạnh lẽo nước trong veo/tựa gối ôm cằm lâu chẳng được/ cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Những hình ảnh được dựng lên một cách chân thực, cách gợi tả đi vào lòng người.

Ngôn ngữ trào phúng nhiều cung bậc, hóm hỉnh, cường điệu với lối chơi chữ tài tình, điêu luyện.

Nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Khuyến

Nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến là bậc thầy của làng thơ Việt Nam thông qua cách thể hiện tình cảm qua hình ảnh chân thật, thôn quê đầy sự yêu thương. Cùng với đó là ngôn ngữ nhẹ nhàng, đi sát với đời sống người dân lao động giúp ông thành công trong việc chuyển sự tinh tế của đời thường thành câu thơ gần gũi, đi vào lòng người.

Điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ của Nguyễn Khuyến là ông đã “đưa tiếng nói sinh hoạt dân dã, bình dị vào thơ một cách tinh tế, sâu sắc, nhiều khi hóm hỉnh, tự nhiên mà thành thơ”. Dù viết thể thơ cổ điển nhưng ông vẫn luôn thỏa mái, không gò bó; vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca dân gian và ngôn từ giàu chất tạo hình. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Nôm, ngôn ngữ thơ đến trình độ mới, tinh tế và hiện đại hơn.

3.3. Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khuyến

Phần lớn những tác phẩm xuất sắc của ông đều được sáng tác trong thời kỳ ông cáo quan về ở ẩn. Các tác phẩm tiêu biểu gồm có: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

Quế Sơn thi tập gồm khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt hoặc viết bằng tiếng Việt  rồi dịch sang chữ Hán.

Trong thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể thấy, Nguyễn Khuyến thành công ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

4. Những nhận định về nhà thơ Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” - Xuân Diệu

Cho đến khí vị thanh đạm…, đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm của ông đối với đời sống lao động của người nông dân” - Lê Trí Viễn

Làng quê Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng, thanh đạm, hồn hậu. Mỗi màu sắc, đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng là nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc của mùa thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân” - Nguyễn Đức Quyền

5. Nơi thờ tự “Tam Nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến

Nơi thờ tự “Tam Nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến

Nơi thờ tự “Tam Nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến

Từ đường Nguyễn Khuyến nằm ở thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam; cách trung tâm tỉnh Hà Nam khoảng 16km. Đây là nơi thờ tự nhà thơ Nguyễn Khuyến và lưu giữ những kỷ vật như các tác phẩm, bức hoành phi câu đối của các bậc đại sĩ tặng nhà thơ.

Qua nhiều năm, ngôi nhà của Tam Nguyên Yên Đổ vẫn giữ được nếp nhà xưa - nét đặc trưng của đồng quê chiêm trũng. Hiện nay, nhà cụ Nguyễn Khuyến trở thành Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.

Nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị

Nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị

Khu tưởng niệm từ đường Nguyễn Khuyến được xây dựng theo kiến trúc lưỡng long chầu nguyệt, có 9 bậc. Thường thì người ta để hình lưỡng long chầu nguyệt ở trên nóc nhà nhưng riêng cụ thì ngược lại để dưới đất. Nguyễn Khuyến giải thích với giới chức sắc là làm như vậy để tránh nắng hướng đông và hướng tây nhưng thực ra là “thâm ý” của cụ là vua nhà Nguyễn bán nước nên không cho cưỡi lên đầu rồng, chỉ chầu ở đằng trước nhà thôi.

 

Đi sâu vào từ đường bạn sẽ thấy những nghiêng bút, sắc phong, câu đối, đó là tấm biển “Ân tứ vinh quy”, “Nhị giáp tiến sĩ” do vua Tự Đức ban. Bên trong hậu cung còn lưu giữ bộ triều phục của quan ngự sử Nguyễn Khuyến. Có bức tượng tạc hình chống gậy trúc, khoan thai nhìn trời xanh. Cây gậy ấy là quả của con trai Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan sau một lần trẩy kinh ứng thí. Trong nhà treo nhiều hình ảnh, cảnh trường thi, lễ xướng danh khoa thi 1871 và hình ảnh cụ Nguyễn Khuyến lúc đỗ Tam Nguyên.

Mong rằng, các thông tin trên đây về Nguyễn Khuyến sẽ hữu ích với bạn. Nếu có dịp tới mảnh đất Hà Nam, bạn đừng quên ghé thăm khu từ đường Nguyễn Khuyến để có thêm những hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp của nhà thơ lỗi lạc, có nhiều cống hiến cho nền văn học Việt Nam.

Danh mục
Chat messenger